Xét nghiệm D-Dimer
XÉT NGHIỆM D-DIMER
KTV. Nguyễn Hoàng Thứ – Khoa xét nghiệm
1. Xét nghiệm D-dimer là gì?
Khi bị chấn thương, cơ chế tự đông máu trong cơ thể tự động được tiến hành giúp ngăn chặn tình trạng mất máu. Khi vết thương ổn định, vết thương được cầm máu cơ chế phá vỡ cục máu đông lại được tự động thực hiện để hồng cầu được lưu thông bình thường.
Nồng độ D-dimer trong máu tăng là dấu hiệu cho thấy có xuất hiện cục máu đông trong mạch máu. Do vậy định lượng D-dimer trong máu là phương pháp để nhận biết có huyết khối trong máu hay không. Kỹ thuật này được gọi là xét nghiệm định lượng D-dimer.
2. Khi nào cần thực hiện xét nghiệm D-dimer
Xét nghiệm D-dimer được chỉ định với hai mục đích cơ bản:
- Một là hỗ trợ chẩn đoán chính xác tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
- Hai là loại trừ một hoặc một số vấn đề có thể gây nên những triệu chứng bất thường ở người bệnh.
- Xét nghiệm D-dimer để chẩn đoán tình trạng sức khỏe và nguy cơ gây bệnh của bệnh nhân
Bác sĩ sẽ chỉ định làm xét nghiệm D-dimer khi bệnh nhân có các triệu chứng như: , chân bị đổi màu hoặc đau yếu một chân. Ngoài ra, các triệu chứng thuyên tắc phổi như: Đột ngột khó thở, , đau ngực, ho ra máu,.. cũng sẽ được chỉ định xét nghiệm D-dimer.
D-dimer là yếu tố chứng minh sự hiện diện của các fibrin trong tuần hoàn, thường được sử dụng để: Chẩn đoán bệnh lý huyết khối
Trong 90% trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu và 95% các trường hợp tắc mạch phổi, giá trị D-dimer đều tăng. Chỉ ở 5% những người không có bệnh huyết khối ghi nhận D-dimer tăng.
Phát hiện bệnh nhân bị tăng đông máu
Với 1 bệnh nhân nằm liệt giường, kết quả xét nghiệm thấy xuất hiện D-dimer có thể gợi ý khả năng huyết khối mới hình thành, là bằng chứng để thăm dò, xác định huyết khối. Bác sỹ sẽ cần dự phòng chống đông cho bệnh nhân để phòng ngừa biến chứng.
Theo dõi bệnh lý huyết khối theo thời gian
Sự trở lại bình thường của D-dimer ở bệnh nhân mắc bệnh lý huyết khối đánh giá hiệu quả điều trị tiến triển tốt, quá trình hình thành Fibrin đã cân bằng trở lại. Nhưng nếu xuất hiện trở lại các D-dimer trong thời gian theo dõi thì khả năng bệnh lý huyết khối tắc mạch tái phát.
Theo đó, xét nghiệm này được chỉ định để:
– Giúp chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch đã được hình thành.
– Chẩn đoán tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch.
3. Các kỹ thuật xét nghiệm D-dimer
Hiện nay có 2 kỹ thuật xét nghiệm định lượng D-dimer đang được áp dụng:
l Xét nghiệm D-dimer ngưng tập trên Latex
Xét nghiệm kỹ thuật này có độ nhạy không cao, do Test chỉ phát hiện khi có nhiều cục đông hình thành, nếu chỉ có 1 cục động thì kết quả vẫn . Do đó, xét nghiệm này được coi như Test nhạy và đặc hiệu để chẩn đoán tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch.
l Xét nghiệm D-dimer siêu nhạy
Kỹ thuật xét nghiệm này tiến hành bằng ELISA hoặc đo độ đục miễn dịch để xác định nồng độ D-dimer. Xét nghiệm này siêu nhạy có độ nhạy rất cao, kể cả có 1 cục đông nhỏ, duy nhất thì vẫn cho kết quả dương tính.
Phát hiện bệnh nhân bị tăng đông máu
Với 1 bệnh nhân nằm liệt giường, kết quả xét nghiệm thấy xuất hiện D-dimer có thể gợi ý khả năng huyết khối mới hình thành, là bằng chứng để thăm dò, xác định huyết khối. Bác sỹ sẽ cần dự phòng chống đông cho bệnh nhân để phòng ngừa biến chứng.
Theo dõi bệnh lý huyết khối theo thời gian
Sự trở lại bình thường của D-dimer ở bệnh nhân mắc bệnh lý huyết khối đánh giá hiệu quả điều trị tiến triển tốt, quá trình hình thành Fibrin đã cân bằng trở lại. Nhưng nếu xuất hiện trở lại các D-dimer trong thời gian theo dõi thì khả năng bệnh lý huyết khối tắc mạch tái phát.
Theo đó, xét nghiệm này được chỉ định để:
– Giúp chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch đã được hình thành.
– Chẩn đoán tình trạng đông máu rải rác trong lòng mạch.
4. Quy trình thực hiện xét nghiệm D-dimer và cách đọc kết quả
Cách thực hiện xét nghiệm khá đơn giản, ống nghiệm chứa chất chống đông Citrat 3.8% được chuẩn bị, huyết tương được lấy để làm mẫu bệnh phẩm phân tích.
Bệnh nhân không nhất thiết phải nhịn ăn trước khi lấy máu xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm là bình thường nếu:
- Thử nghiệm Latex: – < 500 μg/L hay < 0,5 mg/L
- Xét nghiệm đo độ đục miễn dịch : <250 ng/ml.
- Cục máu đông gây tắc nghẽn mạch máu
Nồng độ D-dimer tăng bất thường gợi ý nguyên nhân do:
- Tắc mạch phổi.
- Huyết khối động mạch.
- Huyết khối các tĩnh mạch sâu.
- Tình trạng tăng đông máu:
– Bệnh lý ác tính.
– Chấn thương.
– Các tháng cuối của thời kỳ mang thai.
– Nhiễm trùng.
– Giai đoạn hậu phẫu.
- Giai đoạn sau mổ.
- Xơ gan.
- Nhồi máu cơ tim.
- Làm cầu nối tĩnh mạch-phúc mạc (shunt péritonéoveineux).
- Đông máu rải rác trong lòng mạch (CIVD).
- Chấn thương.
- Sản giật.
- Sau điều trị tiêu fibrin (fibrinolysis).
Cũng cần lưu ý đến một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm:
- Hiệu giá yếu tố dạng thấp cao trong huyết thanh gây dương tính giả.
- Thuốc tiêu fibrin làm tăng kết quả xét nghiệm.Xét nghiệm D-dimer siêu nhạy tăng cao hoặc hạ thấp giả do tình trạng tăng lipid máu, hoặc bệnh phẩm bị tủa đục ở bệnh nhân điều trị bằng kháng thể đơn dòng chiết xuất từ chuột.
D – Dimer có thể tăng do yếu tố khác ngoài bệnh lý
Kết quả xét nghiệm này có giá trị chẩn đoán các bệnh lý huyết khối tắc mạch với độ nhạy đạt 95%, độ đặc hiệu đạt 90%.
5. Ý nghĩa xét nghiệm D-dimer
Tùy vào phương pháp định lượng mà kết quả xét nghiệm D-dimer ở các cơ sở ý tế khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau. Hiện nay, có hai kỹ thuật xét nghiệm D-dimer phổ biến thường được áp dụng là:
- Xét nghiệm D-dimer ngưng tập trên latex( Latex agglutination D-dimer). Nồng độ D-dimer được xem là bình thường đối với phương pháp này là < 500μg/L hay <0,5mg/L.
- Xét nghiệm D-dimer siêu nhạy( Ultrasensitive immunoturbidimetric test). giá trị được xem là bình thường đối với kỹ thuật này là nồng độ D-dimer <1,1mg/L.
Kết quả xét nghiệm D-dimer âm tính hoặc bình thường
Nghĩa là người bệnh không bị tình trạng cấp tính hay mắc bệnh gây ra sự hình thành – vỡ cục máu đông bất thường. Các chuyên gia đều đồng tình rằng hữu ích khi đối tượng có nguy cơ huyết khối trung bình – thấp. Các triệu chứng gây ra có thể loại trừ nguyên nhân là do đông máu với kết quả xét nghiệm âm tính.
Trong trường hợp các triệu chứng nêu ở trên vẫn xảy ra, có thể các xét nghiệm khác ngoài xét nghiệm D-dimer sẽ được chỉ định thêm để đưa ra khẳng định chính xác nhất.
Kết quả xét nghiệm D-dimer dương tính:
Điều này có nghĩa là lượng D-dimer trong máu đã vượt quá mức cho phép, bạn có thể đang có các cục máu đông trong mao mạch. Ngoài ra các yếu tố như: Nhiễm trùng, các bệnh về gan, ung thư,
Trong thai kỳ, Fibrin cũng hình thành và vỡ nhiều hơn, vì thế D-dimer trong máu cũng tăng cao. Bác sỹ có thể kết hợp xét nghiệm D-dimer với PTT, PT, Fibrinogen, xét nghiệm đo lượng tiểu cầu,… để loại trừ nguy cơ ở phụ nữ mang thai.
Kết quả này chỉ nói lên bạn có nguy cơ cao có cục máu đông chứ không thể khẳng định hoàn toàn. Xét nghiệm D-dimer cũng không có khả năng chỉ ra vị trí của cục máu đông, do đó để có kết quả chính các nhất các bác sĩ sẽ chỉ định làm thêm các kỹ thuật xét nghiệm cận lâm sàng khác.
Kết quả dương tính cho thấy, sản phẩm thoái hóa Fibrin trong huyết tương ở mức độ cao bất thường. Nguyên nhân có thể do sự hình thành và tan cục máu đông đáng kể bất thường.
Tùy vào tình trạng bệnh cụ thể, bác sỹ có thể chỉ định thực hiện xét nghiệm D-dimer kết hợp với các xét nghiệm khác để đánh giá nguy cơ bệnh toàn diện.
Kết quả xét nghiệm chỉ xác định được nguy cơ cao xuất hiện huyết khối chứ không hoàn toàn chính xác
6. Xét nghiệm D-dimer có nguy hiểm không ?
Câu trả lời là không. Xét nghiệm D-dimer cũng tương tự những xét nghiệm máu khác, mẫu được lấy bằng thủ thuật rút máu bằng kim tiêm kim loại. Do đó những biểu hiện như chảy máu vùng chích kim, chóng mặt, hay đau nhức nhẹ là hoàn toàn bình thường.
Một số trường hợp rủi ro đặc biệt hy hữu có thể phát sinh là nhiễm trùng, xuất huyết hoặc ngất xỉu.